Nguồn gốc, xuất xứ và đặc điểm của giống lợn cỏ Việt Nam

Lợn cỏ, hay còn được biết đến như lợn nít, là một giống lợn bản địa của Việt Nam, đặc trưng bởi kích thước nhỏ, thân hình gầy, da mảnh và quá trình phát triển chậm chạp. Chúng là đặc sản của một số khu vực nghèo ở miền Trung, chủ yếu là các tỉnh nằm dọc theo dãy Trường Sơn như Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, đặc biệt là ở các tỉnh thuộc khu IV cũ.

Nguồn gốc, xuất xứ và phân bổ

Lợn cỏ thường được nuôi tự phát và chịu ảnh hưởng nặng nề từ việc phối giống cận huyết. Người dân miền Trung thường gọi chúng là heo cặng, thể hiện sự khó khăn trong việc chăm sóc và nuôi dưỡng chúng, với ý nghĩa là heo nuôi mãi không lớn. Điều này phản ánh một phần của nền kinh tế vùng này, đang đối mặt với nhiều thách thức như nghèo đói, quản lý kém hiệu quả và tình trạng thoái hóa nghiêm trọng trong việc phối giống đồng huyết.

Trước những năm 1960, giống lợn này phổ biến ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và khu vực Bình Trị Thiên. Tuy nhiên, do lợi ích kinh tế từ giống lợn này không cao và đặc biệt là sau khi chính sách phổ biến giống lợn Móng Cái ra các tỉnh miền Trung được áp dụng rộng rãi, đàn lợn này đã bị thu hẹp nhanh chóng. Sự thu hẹp này đặc biệt được thấy thông qua việc không còn ai nuôi lợn đực nữa và giống lợn này gần như đã tuyệt chủng. Mặc dù có một số con lợn con cai sữa được để lại (có thể đã bị lai tạo) nhưng không thấy bất kỳ con đực nào của giống lợn Cỏ.

giong-lon-co

Tham khảo thêm trên: Wikipedia

Đặc điểm của giống lợn cỏ

Đặc điểm của giống lợn cỏ là thân hình nhỏ, nhỏ hơn so với các giống lợn nội khác. Trọng lượng trung bình của lợn trưởng thành dao động từ 30 đến 35 kg, với trọng lượng tối đa chỉ từ 20 đến 25 kg mỗi con. Khi nuôi để thu hoạch thịt khi lên 10-12 tháng tuổi, chúng đạt khoảng 27 đến 30 kg. Đặc biệt, việc định tiêu chuẩn cho lợn đực giống Cỏ gặp rất nhiều khó khăn, vì phải đảm bảo trọng lượng từ 20 kg trở lên. Thậm chí, ở một số vùng, việc tìm thấy con đực có trọng lượng lớn hơn 20 kg là điều hiếm gặp. So với lợn lai, lợn cỏ phát triển chậm hơn nhiều, chỉ đạt khoảng 30 đến 40 kg trong một năm, trong khi lợn lai cùng thời gian có thể đạt từ 80 đến 100 kg.

Xem thêm:  Giống Chó Teacup: Nguồn gốc, đặc điểm, cách nuôi, giá bán

Vì chúng có kích thước nhỏ, thân hình gầy còm và phát triển chậm, lợn cỏ có tỷ lệ thịt khá thấp. Tỷ lệ thịt trong trọng lượng cơ thể (tỷ lệ móc hàm) thường chỉ dao động từ 40 đến 50%, và khi lợn nuôi thịt đạt khoảng 25 đến 30 kg và được giết thịt, tỷ lệ thịt xẻ cũng thấp. Đặc biệt, phần bụng (nội quan) và đầu của lợn cỏ thường có kích thước lớn hơn so với phần thịt, khiến tỷ lệ thịt xẻ chỉ đạt khoảng 50 đến 55%. Thịt của lợn cỏ ngon nhất khi chúng được nuôi đến khoảng 6 tháng tuổi, đạt trọng lượng khoảng 15 kg. Nhiều người thậm chí gọi chúng là “lợn cắp nách” vì chúng chỉ lớn hơn con mèo trưởng thành một chút. Tuy nhiên, thịt của lợn cỏ có ít mỡ, có cấu trúc săn chắc, hương vị thơm ngon và là loại thịt mà những người thích ẩm thực đặc sản đều yêu thích.

Lợn cỏ có màu da và lông đen đậm, mõm dài, và chân nhỏ. Đa số là lợn lang trắng đen, có mõm dài và xương nhỏ, thường được sử dụng cho việc bán thịt. Chúng thường có bụng xệ, da mỏng, lông thưa, và màu da trắng bợt, điều này thể hiện sự yếu ớt, thiếu chất dinh dưỡng, và khả năng phát triển kém. Lợn cỏ thuần chủng của dân tộc Mường thường có lông xù, dày, tai nhỏ, chân nhỏ, mõm dài và thon gọn. Chúng có khả năng chạy nhanh, nhiều người thấy chúng thường chạy vụt ngang qua đường. Giống lợn này dễ nuôi, có sức đề kháng tốt và dễ bán. Chúng cũng có khả năng chịu đựng được khí hậu khắc nghiệt, như là nhiệt đới và thức ăn hạn chế.

lon-co

Khả năng sinh sản và nhân giống

Khả năng sinh sản và nhân giống của lợn cỏ thường khá thấp. Mỗi năm, một con lợn nội chỉ sinh đẻ khoảng 1,2 đến 1,3 lứa, và mỗi lứa chỉ có khoảng 6 đến 7 con. Điều này chủ yếu do tác động của thức ăn nghèo dinh dưỡng và cộng thêm hiện tượng phối giống đồng huyết, nơi con nhảy mẹ gây ra. Khối lượng của lợn con khi cai sữa (khoảng 2 tháng tuổi) thường chỉ đạt khoảng 3 kg. Lợn nái đạt động dục rất sớm, thường vào khoảng 3 tháng tuổi, và thường sinh đẻ lứa đầu tiên khi khoảng 10 tháng tuổi. Lợn đực cũng có khả năng đạt động dục từ 2 đến 3 tháng tuổi. Tuy nhiên, do tình trạng phối giống đồng huyết và việc không quản lý chặt chẽ, lợn đực giống thường không phát triển lớn.

Xem thêm:  Gà lai chọi: đặc điểm, cách nuôi và giá bán con giống

Tính trạng đặc biệt của lợn cỏ là chúng thuộc loại hình lợn mini. Một số người đã từng nghĩ đến việc giữ lại chúng để tạo ra loại lợn địa phương mini có chất lượng thịt thơm ngon. Tuy nhiên, ý tưởng này không thành công do giá trị kinh tế thấp, vì lợn quá nhỏ. Do đó, trước khi có ý định bảo tồn giống lợn cỏ này, nhiều người đã bỏ qua chúng mà không thương tiếc.

Bảo tồn và phát triển lợn Cỏ ở Việt Nam

Trước thập niên 60, giống lợn cỏ phổ biến ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và khu vực Bình Trị Thiên. Tuy nhiên, do ít có lợi kinh tế và đặc biệt là sau khi chính sách phổ cập giống lợn Móng Cái ra các tỉnh miền Trung được thực thi mạnh mẽ, giống lợn cỏ này đã giảm sút nhanh chóng. Sự suy giảm này dẫn đến việc ít người muốn nuôi lợn đực, và dần dần, giống lợn này trở nên gần như tuyệt chủng. Một số con lợn con cai sữa được giữ lại, nhưng không có bất kỳ con đực nào của giống lợn cỏ. Trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường, giống lợn cỏ ở Việt Nam đã dần bị quên lãng. Hiện nay, trong nhiều xã vùng sâu và vùng cao, vẫn còn tồn tại những giống lợn thuần chủng, nhưng việc nuôi chủ yếu chỉ mang tính tự cung, tự cấp.

nuoi-lon-co

Tuy nhiên, ở một số nơi như huyện Quỳ Hợp, nhiều bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa đã gần như không còn giống lợn cỏ truyền thống. Trong khi đó, nhu cầu về giống lợn này lại đang tăng lên. Từ thị trấn cho đến các thành phố lớn, người ta thường gọi chúng là đặc sản lợn nít. Ngoài việc lựa chọn giống lợn cỏ thuần chủng, phương thức nuôi cũng ảnh hưởng đến chất lượng thịt. Nhiều thương lái từ các nơi khác đến mua lợn rồi về vỗ béo, làm cho lông và da của chúng mỡ màng, nhưng thịt không thơm ngon và độ dẻo như nuôi theo cách truyền thống. Mỗi năm, vào dịp gần tết, mọi người, đặc biệt là tư thương ở các nơi, lại tìm kiếm lợn cỏ, không để bán mà để nuôi. Lợn thường được thả rong hoặc thả vào vườn, cho ăn đơn giản như rau trộn cám, thái củ sắn để ăn sống.

Xem thêm:  Ngỗng sư tử: nguồn gốc, giá con giống, kỹ thuật nuôi và phòng ngừa dịch bệnh

Sự phát triển chăn nuôi lợn cỏ của dân tộc Mường theo hướng hàng hoá được coi là một hướng đi đúng, góp phần khai thác tiềm năng và thế mạnh của các xã vùng cao, vùng sâu. Lợn cỏ được nhiều người ưa chuộng, tuy nhiên, vấn đề xây dựng và giữ vững thương hiệu vẫn còn đặt ra. Huyện Quỳ Hợp đã đầu tư 90 triệu đồng để tổ chức mô hình thí điểm, nhằm hỗ trợ hục hồi và phát triển giống lợn cỏ truyền thống ở xã vùng cao Liên Hợp. Mô hình này bao gồm việc đầu tư giống lợn cỏ được mua về từ các huyện Quế Phong, Quỳ Châu, Tương Dương; sử dụng thức ăn hoàn toàn không phải từ công nghiệp chế biến; cung cấp tập huấn kỹ thuật và tiêm phòng, chăm sóc cho lợn. Mặc dù mô hình này còn nhỏ và lượng tiền đầu tư chưa nhiều, nhưng được đồng bào vùng cao xã Liên Hợp rất hoan nghênh và tích cực tham gia.

Hiện nay, nhiều xã vùng sâu và vùng cao vẫn tiếp tục bảo tồn những giống lợn thuần chủng, và xuất hiện nhiều hộ chuyển từ việc nuôi lợn lai sang nuôi lợn địa phương, từ phương thức tự cung sang hướng hàng hoá. Xã đã đưa chăn nuôi lợn cỏ địa phương vào nghị quyết trong kế hoạch phát triển kinh tế của xã, coi đây là một mũi nhọn. Hướng đi này tận dụng những thế mạnh về giống, đất đai, và vườn đồi rộng, cùng với cách nuôi phù hợp với người dân.

tran-hong-tham

Phó phòng Marketing

Thạc Sĩ, Bác Sĩ Thú Y (Trường Nông Lâm TP.HCM), Có hơn 6 năm kinh nghiệm trong ngành chăn nuôi