Lợn ỉ là một loại lợn có nguồn gốc từ tỉnh Nam Định và thường được chăm sóc chủ yếu tại miền Bắc Việt Nam. Dù đã tồn tại từ lâu, loài lợn này đang đối diện với nguy cơ tuyệt chủng do không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Để bảo tồn giống, các biện pháp nuôi trồng đang được triển khai mạnh mẽ.
Nguồn gốc của lợn Ỉ
Lợn Ỉ bắt nguồn từ giống lợn Ỉ mỡ, xuất phát từ vùng miền Bắc Nam Định. Theo thời gian, giống lợn Ỉ mỡ đã tiếp xúc với các loại lợn khác, hình thành thành giống lợn Ỉ ngày nay với hai dạng chính là Ỉ mỡ và Ỉ pha. Nòi Ỉ mỡ bao gồm các loại như ỉ mỡ, ỉ nhăn, ỉ bọ hung. Nòi Ỉ pha gồm các loại như ỉ pha, ỉ bột pha, ỉ sống bương.
Trước thập niên 70, lợn Ỉ được chăn nuôi rộng rãi ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ như Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Hưng Yên, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thanh Hoá, Hải Phòng. Tuy nhiên, vị thế của loài này dần dần bị thay thế bởi lợn Móng Cái, có khả năng sinh sản tốt hơn. Kể từ cuối thập niên 70, số lượng lợn Ỉ giảm dần, và đến ngày nay, chúng chỉ còn tồn tại ở một số xã của tỉnh Thanh Hoá, trong tình trạng nguy cơ tuyệt chủng.
Đặc điểm giống lợn Ỉ
Lợn Ỉ được mô tả với đầu hơi to, có trán dô ra khi trở nên béo phì, mặt có nhiều nếp nhăn, cổ và má thường xệ xuống khi chúng đạt khoảng 5 – 6 tháng tuổi. Mắt của chúng híp, mõm to và bè, môi dưới thường dài hơn so với môi trên.
Chúng có vai rộng, ngực sâu, thân ngắn, lưng có vẻ lõm, tuy nhiên khi trở nên béo phì thì vẻ lõm này ít hơn. Bụng của chúng to và xệ xuống khá sâu, mông bắt đầu nở từ khoảng 2-3 tháng tuổi, phần sau mông có vẻ hơi cúp, chân thì thấp và tương đối yếu.
“Lợn Ỉ” có nhiều dạng khác nhau, trong đó phổ biến nhất là Ỉ mỡ và Ỉ pha.
Lợn Ỉ mỡ: Chúng thường có lông da đen bóng, lông thường mảnh và thưa, một số có lông rậm (lông móc) tương tự như Ỉ pha.
Đầu của chúng thường hơi to, khi trở nên béo phì, trán dô ra, mặt nhăn nhiều, cổ và má sệ từ khi chúng đạt khoảng 5-6 tháng tuổi. Mắt híp, mõm to và bè, ngắn, môi dưới thường dài hơn môi trên, lợn nái càng già thì mõm càng dài và cong lên, tuy luôn ngắn hơn so với Ỉ pha. Vai rộng, ngực sâu, thân mình ngắn hơn so với Ỉ pha, lưng có vẻ võng, nhưng khi béo phì thì ít võng hơn. Bụng của chúng to và sệ, mông bắt đầu nở từ khoảng 2-3 tháng tuổi, phía sau mông có vẻ hơi cúp. Chân thấp hơn so với Ỉ pha, lợn thịt hoặc hậu bị có hai chân trước thẳng, hai chân sau hơi nghiêng, trong khi lợn nái thường đi chữ bát, hai chân sau yếu.
Lợn Ỉ pha: Chúng cũng có lông da đen bóng, lông thường mảnh và thưa, một số có lông rậm (lông móc).
Đầu của chúng vừa phải, trán gần phẳng, mặt ít nhăn, khi trở nên béo phì, cổ và má chảy sệ, mắt nhỏ và híp, mõm to và dài vừa phải, lợn nái càng già thì mõm càng dài và cong lên. Vai vừa phải, từ 8-9 tháng vai bằng hoặc lớn hơn mông, ngực sâu. Thân mình dài hơn so với Ỉ mỡ, lưng đa số hơi võng, nhưng khi trở nên béo phì thì trông phẳng. Bụng to, mông lúc nhỏ hơi lép về phía sau, từ 6-7 tháng mông bắt đầu nở dần. Chân thấp, lợn thịt hoặc hậu bị thì hai chân trước tương đối thẳng, hai chân sau hơi nghiêng, trong khi lợn nái thì nhiều con đi vòng kiềng hoặc chữ bát.
Giống này có hai dạng: Đen và Gốc (Sống bương). Cả hai dạng đều được tạo ra tại vùng Nam Định. Giống Ỉ đen đã tuyệt chủng không còn nữa – con lợn nái cuối cùng phát hiện năm 1994 tại Ninh Bình. Còn giống lợn Gốc hiện nay có gần 100 con đang được bảo tồn thông qua Đề án Quỹ gen vật nuôi tại Thanh Hóa.
Sinh trưởng và sinh sản của lợn Ỉ
Giống Lợn Ỉ thường có khả năng phối giống khi đạt khoảng 4 – 5 tháng tuổi. Chúng có thể sinh sản hàng năm, đẻ khoảng 2 lứa, với mỗi lứa từ 8 đến 11 con, đôi khi có thể đạt đến 16 con mỗi lứa.
Khối lượng lợn ỉ mỡ và ỉ pha qua các mốc tuổi (kg)
Tháng | Lợn | pha | Lợn Ỉ mỡ | |
Tuổi | Trung bình | Biến động | Trung bình | Biến động |
Sơ sinh | 0.425 | 0.25-0.77 | ||
1 | 2.034 | 1.1-3.8 | ||
2 | 4.401 | 2.0-6.6 | 4.528 | 2.0-7.0 |
3 | 7.525 | 5.0-12.0 | 7.300 | 4.5-11.7 |
6 | 24.9 | 18.0-42.0 | 22.5 | 15.5-40.0 |
9 | 39.9 | 30.0-55.0 | 41.3 | 28.0-52.0 |
12 | 48.2 | 40.0-66.0 |
Đánh giá về khả năng sinh trưởng của giống này đã được tiến hành thông qua việc nghiên cứu các vùng nuôi lợn Ỉ thuần, trong đó áp dụng các phương pháp và điều kiện nuôi dưỡng cụ thể của từng địa phương. Kết quả cho thấy, khả năng sinh trưởng và tăng trưởng của hai dạng lợn Ỉ pha và Ỉ mỡ tương đương nhau, được thể hiện qua việc đo lường khối lượng và kích thước theo các chỉ tiêu đánh giá.
Khối lượng và kích thước lợn ỉ pha và ỉ mở
Giống lợn | Năm tuổi | Khối lượng (kg) | Cao vây (cm) | Dài thân (cm) | Vòng ngực (cm) |
Lợn ỉ pha | 1 | 38.4 | 39.5 | 77.7 | 74.9 |
2 | 44.4 | 41.5 | 83.9 | 81.4 | |
3 | 48.4 | 42.9 | 90.0 | 84.7 | |
> 3 | 49.4 | 44.1 | 95.6 | 87.6 | |
Lợn Ỉ Mỡ | 36.3 | 38.8 | 75.6 | 73.5 | |
2 | 42.2 | 40.5 | 82.0 | 80.5 | |
3 | 46.5 | 42.0 | 88.7 | 83.5 | |
>3 | 49.3 | 42.6 | 91.5 | 86.3 |
Bảo tồn giống lợn Ỉ
Vào ngày 14 tháng 3, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đã thông báo về một bước tiến lớn trong lĩnh vực khoa học công nghệ tại Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử của đất nước, các nhà khoa học tại Viện Chăn Nuôi (Bộ NN&PTNT) đã thành công trong việc nghiên cứu và beherrschen công nghệ nhân bản lợn ỉ từ tế bào somatic tai (trưởng thành).
Theo thông tin, vào ngày 10 tháng 3, đã có 4 chú lợn con ra đời khỏe mạnh và phát triển tốt nhờ vào công nghệ này.
Sự thành công này không chỉ là một bước đột phá quan trọng trong lĩnh vực nhân bản động vật tại Việt Nam mà còn là minh chứng cho sự tăng cường vai trò và uy tín của nền khoa học công nghệ Việt Nam trong khu vực và trên toàn cầu.
Trước đó, từ tháng 7 năm 2017, Viện Chăn Nuôi đã bắt đầu triển khai đề tài “Nghiên cứu về việc tạo lợn ỉ bằng kỹ thuật chuyển giao tế bào somatic”.
Theo: Lần đầu tiên Việt Nam nhân bản thành công lợn ỉ từ tế bào soma mô tai (Báo Tuổi Trẻ)
Đặt mua thiết bị nuôi heo con
Phó phòng Marketing
Thạc Sĩ, Bác Sĩ Thú Y (Trường Nông Lâm TP.HCM), Có hơn 6 năm kinh nghiệm trong ngành chăn nuôi