Chậm động dục hoặc chậm lên giống là một vấn đề phổ biến trong chăn nuôi heo sinh sản, gây ảnh hưởng đến cả chăn nuôi nông hộ và trang trại, đồng thời làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận của người nuôi.
Đối với heo nái hậu có tuổi trên 8 tháng và trọng lượng từ 95 – 120kg, nếu chưa có dấu hiệu lên giống, được coi là chậm lên giống.
Đối với heo nái rạ sau khi cai sữa heo con, thường có biểu hiện lên giống trở lại vào ngày thứ 4 – 7 (chiếm 85 – 90%). Nếu sau 10 ngày kể từ khi cai sữa heo con, heo nái không thể hiện dấu hiệu lên giống, được xem như chậm lên giống. Thời gian mỗi chu kỳ lên giống của heo trung bình từ 18 – 21 ngày.
Nguyên nhân heo nái chậm lên giống
Nguyên nhân heo nái chậm lên giống có thể được chia thành nguyên nhân bên trong và bên ngoài.
1. Nguyên nhân bên trong:
Rối loạn di truyền và đột biến di truyền do tương tác và kết hợp gen không bình thường có thể dẫn đến vô sinh. Các heo nái vô sinh do di truyền thường có khuyết tật cơ quan sinh dục hoặc tuyến sinh dục không phát triển đầy đủ. Các rối loạn chức năng của cơ quan sinh dục là nguyên nhân trực tiếp gây vô sinh hoặc chậm lên giống.
Mất cân bằng nội tiết như giảm tiết FSH sẽ dẫn đến giảm tiết estrogen. Điều này làm cho heo nái không có biểu hiện động dục. Tiếp tục tiết progesterone sẽ kìm hãm sự phát triển của noãn. Kết quả làm cho heo nái mất chu kỳ động dục.
Các u nang trong buồng trứng gây áp lực và làm chậm sự phát triển của bao noãn, dẫn đến chậm lên giống hoặc vô sinh. Heo nái bị u nang trong buồng trứng sẽ không thể mang thai.
Tỷ lệ FSH/LH không thích hợp có thể gây trở ngại cho quá trình rụng trứng. Khi hàm lượng LH quá thấp, heo nái có biểu hiện động dục quá mức, liên tục và kéo dài. Trong phần lớn các trường hợp như vậy, heo nái không thụ tinh sau quá trình giao phối.
Sau khi đẻ, heo nái có thể bị rối loạn hormone trong cơ thể, đây là một trong những nguyên nhân gây chậm lên giống sau khi cai sữa.
2. Nguyên nhân bên ngoài:
Dinh dưỡng trong quá trình nuôi con, lứa đẻ, khí hậu, mùa trong năm, thời gian nuôi con và các bệnh tật có thể ảnh hưởng mạnh đến chức năng sinh sản của heo nái.
Thức ăn bị nấm mốc, khẩu phần thức ăn không cân đối, giá trị dinh dưỡng kém và lượng thức ăn cung cấp không tuân thủ quy trình từng giai đoạn nuôi có thể ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và gây xáo trộn sinh lý.
Heo nái ở giai đoạn 50-90kg thường được cho ăn lượng thức ăn lớn, khẩu phần chứa nhiều chất bột và đường, làm tăng lượng mỡ trong cơ thể. Heo nái quá mập có thể vẫn phát triển các tế bào trứng, nhưng không thể rụng trứng do buồng trứng bị bao phủ bởi lớp mỡ dày đặc. Một ý kiến cho rằng các kích thích tố sinh dục dạng steroid đã được hấp thu vào mỡ của heo nái, gây chậm động dục.
Thiếu một số dưỡng chất cần thiết cho quá trình phát triển tình dục, chẳng hạn như vitamin, khoáng chất và protein, đặc biệt là vitamin A, D, E có thể làm chậm phát triển buồng trứng và quá trình động dục ở heo.
Khẩu phần chứa quá nhiều protein làm cho gan và thận tích tụ quá nhiều protein, gây mất cân bằng và cản trở quá trình chuyển hoá hormone sinh dục, làm giảm khả năng sinh sản. Ngược lại, khẩu phần thiếu protein có thể ức chế chức năng nội tiết của tuyến yên, khi FSH và LH không được tiết ra đầy đủ, heo nái sẽ không động dục hoặc chậm động dục.
Môi trường căng thẳng và các tác động khác như nhiệt độ chuồng nuôi quá cao hoặc quá lạnh, thời gian nuôi con kéo dài, diện tích chuồng chật hẹp không cho heo di chuyển và vận động, gây tăng cân và cản trở phát triển cơ quan sinh dục. Những tác động này gây rối loạn quá trình điều tiết hormone, bao gồm hormone sinh dục, và dẫn đến chậm lên giống.
Sự lai tạo giữa những con heo có mối quan hệ huyết thống gần nhau có thể dẫn đến giống heo suy thoái, chậm sinh, vô sinh. Heo nái trong trạng thái này khó khăn trong việc sinh con, thai yếu và dễ sinh ra thai quái.
Sự mòn mỏi của cơ thể heo nái trong quá trình nuôi con là một nguyên nhân gây chậm động dục. Sự mòn mỏi tăng dần từ lứa 1-5, sau đó giảm dần ở các lứa sau. Trong một lứa, sự mòn mỏi của heo mẹ phụ thuộc vào lứa đẻ, số lượng con trong lứa, thời gian cai sữa muộn (50-60 ngày) và dinh dưỡng.
Tuổi và lứa đẻ cũng ảnh hưởng đến quá trình động dục của heo nái. Heo nái tơ và nái đẻ lứa 1, 2 thường có tỷ lệ động dục từ 45-60% trong tuần đầu sau cai sữa, trong khi heo nái trưởng thành từ lứa 2 trở lên có tỷ lệ động dục trên 80%. Đôi khi thời gian động dục sau cai sữa kéo dài do mất cân bằng kích thích tố, hoặc do tử cung lưu hay noãn chưa chín đủ.
Dinh dưỡng cho heo nái trong quá trình nuôi con và sau cai sữa ảnh hưởng đến khả năng động dục và thụ tinh. Heo nái có thể trạng lý tưởng sẽ có tỷ lệ động dục cao hơn so với heo béo. Giảm mức protein thô từ 16% xuống 12% trong khẩu phần của heo nái sau cai sữa có thể làm giảm thời gian động dục (4,6 ngày so với 3,3 ngày) và làm tăng tỷ lệ sống của phôi, đồng thời kéo dài thời gian động dục sau cai sữa.
Thời gian động dục có thể biến đổi tùy thuộc vào thời gian nuôi con dài hay ngắn. Khi heo con cai sữa ở tuổi 3-5 tuần hoặc trễ hơn, heo nái thường động dục trong vòng 1 tuần sau cai sữa. Ngược lại, thời gian động dục sẽ kéo dài nếu heo nái cai sữa quá sớm.
Nguyên nhân do bệnh lý cũng góp phần vào chậm lên giống của heo. Viêm tử cung mãn tính, nhiễm trùng cổ tử cung, các bệnh lý truyền nhiễm và bệnh lý về đường sinh dục, bệnh thai gỗ, xoắn khuẩn khỏi bệnh nhưng gây tổn thương trên tử cung, buồng trứng và các cơ quan sinh dục khác. Các bệnh lý này có thể làm giảm khả năng động dục và gây chậm lên giống.
Sự quản lý không tốt trong quá trình chăn nuôi, bao gồm việc không kiểm soát được tình trạng dinh dưỡng, sử dụng thuốc kháng sinh và hormone một cách không đúng cách, không kiểm soát được môi trường chăn nuôi, thiếu chương trình tiêm phòng và kiểm soát bệnh tật cũng có thể gây chậm lên giống.
Tổng hợp lại, chậm lên giống của heo nái có thể có nguyên nhân bên trong như rối loạn di truyền, mất cân bằng hormone, u nang và các vấn đề khác liên quan đến chức năng sinh sản. Nguyên nhân bên ngoài gồm dinh dưỡng không đủ, môi trường chăn nuôi không tốt, căng thẳng, tình trạng mòn mỏi, tuổi và lứa đẻ, quản lý chăn nuôi không đúng cách, và bệnh tật.
Khắc phục heo nái hậu bị chậm lên giống
Để khắc phục vấn đề heo nái hậu bị chậm lên giống, có thể thực hiện các biện pháp sau:
1. Lựa chọn giống heo
Người nuôi nên tìm hiểu và chọn lựa các giống heo có đặc điểm sinh lý sinh sản cao như heo Yorkshire, Landrace, York-Land, thay vì chọn các giống hướng thịt. Đồng thời, trong giai đoạn nuôi heo nái hậu, việc phòng bệnh thông qua việc sử dụng vaccine và loại bỏ những con kém phát triển hoặc mắc bệnh truyền nhiễm là rất quan trọng.
Để chọn được con giống tốt, người chăn nuôi cần lựa chọn những con lợn giống từ đàn lợn mẹ có thành tích sinh sản cao như khả năng đẻ nhiều con/lứa, số lứa heo/năm, biểu hiện rõ ràng về động dục, tỷ lệ phối giống đậu thai cao, khả năng tiết sữa tốt, khả năng nuôi con khéo léo, v.v. Đồng thời, người chăn nuôi cũng nên chọn lựa lợn cái dựa trên ngoại hình và thể chất (lựa chọn những con khỏe mạnh, có tốc độ sinh trưởng tốt, tứ chi vững chắc và đi móng tốt, có ngoại hình cân đối, phần thân sau phát triển tốt, số lượng núm vú chẵn và lớn hơn 12, khoảng cách giữa các núm vú đều nhau, âm hộ phát triển bình thường và không có dị tật,…).
2. Chăm sóc và quản lý
Việc cung cấp khẩu phần ăn cho heo cần đảm bảo cân đối hàm lượng dưỡng chất, bao gồm đạm, khoáng chất và vitamin, đặc biệt là vitamin ADE. Thức ăn không nên bị nấm mốc, nhiễm độc tố hoặc chất hóa học. Ngoài ra, khẩu phần ăn cần đáp ứng đầy đủ dưỡng chất và phải điều chỉnh số lượng phù hợp tùy theo giai đoạn nuôi và thể trạng để giúp heo phát triển tốt nhất.
Đối với heo nái hậu bị, khẩu phần ăn cần đảm bảo cung cấp đầy đủ và cân đối hàm lượng dưỡng chất, bao gồm năng lượng, đạm, khoáng chất và vitamin ADE. Nên tránh sử dụng thức ăn bị nấm mốc, nhiễm độc tố hoặc hóa chất. Ngoài ra, khẩu phần ăn cho heo nái hậu bị cần phù hợp theo khối lượng và giai đoạn nuôi, tránh cho heo ăn tự do với khẩu phần năng lượng cao để tránh tình trạng heo quá béo.
Trong giai đoạn 20-50kg thể trọng, heo nái hậu bị nên được cho ăn tự do để đảm bảo phát triển toàn diện về thể chất. Trong giai đoạn heo trên 50kg và đến khi heo lên giống lần đầu, cần hạn chế khẩu phần ăn (khoảng 2-2,5 kg/con/ngày) để heo phát triển với thể trạng cân đối (không quá gầy và không quá béo). Khi heo đạt trọng lượng 75-80kg, nên tiêm VIGANTOL-E để giúp heo hoàn thiện bộ phận sinh dục. Cần cho heo tiếp xúc với heo đực hoặc heo nái lạ đang lên giống để kích thích heo lên giống.
Đối với heo nái rạ, nên tiến hành cai sữa cho heo con ở giai đoạn từ 26-35 ngày tuổi. Trước khi cai sữa 1 ngày, giảm ½ khẩu phần ăn, ngày cai sữa không cho ăn, ngày thứ 2 cho ăn 1,5kg/ngày/con và từ ngày thứ 3 đến thứ 10 cho ăn 2,5-3kg/con. Mục đích là để giảm khả năng mắc bệnh viêm vú và tạo stress kích thích heo nái lên giống. Trước khi cai sữa, cần tiêm 1 liều vitamin VIGANTOL-E cho heo nái và cho heo nái tiếp xúc với heo nọc từ ngày đầu cai sữa.
Cần theo dõi chặt chẽ để phát hiện heo lên giống, vì heo có thể lên giống yếu và không biểu hiện rõ ràng, điều này làm việc phát hiện khó hơn so với trường hợp bình thường.
Trong việc phòng và điều trị bệnh lý, cần chú trọng đến việc phòng và điều trị triệt để bệnh viêm tử cung, bệnh trên đường sinh dục. Trong quá trình đỡ đẻ, nếu cần can thiệp thì phải sát trùng tay và dụng cụ kỹ càng, thao tác phải nhẹ nhàng để tránh gây tổn thương cho bộ phận sinh dục heo nái. Sau đó, nên sử dụng thuốc kháng sinh tiêm cho nái để ngăn ngừa viêm tử cung.
3. Sử dụng biện pháp kích thích heo lên giống:
Để kích thích heo lên giống, có thể áp dụng các biện pháp gây stress cho heo. Một trong những biện pháp đó là nhốt nhiều heo nái lạ trong cùng một chuồng và cho tiếp xúc với heo nọc hai lần mỗi ngày vào lúc trời mát (mỗi lần trong khoảng 30 phút). Đồng thời, ngừng cung cấp thức ăn cho heo trong khoảng thời gian từ 1 đến 1,5 ngày nhằm tạo ra tình trạng stress cho heo. Thông thường, sau 7-15 ngày sau khi được gây stress, heo nái sẽ bắt đầu lên giống. Khi heo đã lên giống, có thể tiến hành phối giống ngay cho heo.
Đối với lợn cái, cũng có thể áp dụng biện pháp tiếp xúc với lợn đực giống hai lần mỗi ngày vào lúc trời mát (mỗi lần trong khoảng 30 phút). Hoặc có thể cho lợn cái hậu bị ngửi mùi tinh dịch của lợn đực giống. Đồng thời, cần tăng cường hoạt động vận động cho lợn. Ngoài ra, ngừng cung cấp thức ăn cho lợn trong khoảng thời gian từ 1 ngày (tuy nhiên, lợn vẫn được uống nước đầy đủ và thoải mái), sau đó tiếp tục cho ăn theo kiểu bữa no và bữa đói nhằm tạo ra tình trạng stress cho lợn. Thông thường, sau 7-15 ngày sau khi được gây stress, lợn nái sẽ bắt đầu lên giống.
4. Bổ sung thêm vitamin và khoáng chất
Để đảm bảo sự phát triển của buồng trứng và các tuyến nội tiết, cần bổ sung thêm các loại vitamin và khoáng chất cần thiết cho heo nái. Dưới đây là những loại được khuyến nghị:
Bio Selen E: Cho 01 heo nái 100g trong 3 ngày (cho ăn liên tục trong khoảng 10-15 ngày).
VIGANTOL-E: Cho 01 heo nái 5ml liên tục trong 4-5 ngày. VIGANTOL-E là một sản phẩm chứa hỗn hợp các loại vitamin A, D, E được nghiên cứu và sản xuất bởi công ty Bayer – CH Liên Bang Đức, có thành phần và tá dược đặc biệt giúp tăng hiệu quả so với các sản phẩm khác.
Catosal (hoặc Bio Metasal): Cho 01 heo nái 10ml (3 lần mỗi tuần) trong 2 tuần.
5. Can thiệp bằng cách tiêm hormone kích dục
Trường hợp heo không lên giống sau khi đã áp dụng biện pháp gây stress (do heo kém phát triển sinh lý), có thể can thiệp bằng cách tiêm hormone kích dục để kích thích heo lên giống:
Đối với heo nái hậu bị tiêm: Tiêm OESTRADIOL 3-5 ml/nái. Sau khi tiêm hormone kích dục, heo sẽ lên giống sau 3-4 ngày. Khi heo đã lên giống, không nên phối ngay mà cần chờ heo lên giống chu kỳ sau mới tiến hành phối.
Đối với heo nái rạ tiêm: Tiêm HAN-PROST (0.7ml/nái); sau 3 ngày, tiếp tục tiêm GONA-ESTROL (Dưới 100 kg: 4 ml. Trên 100 kg: 8 ml).
Nếu sau thực hiện cả hai biện pháp can thiệp mà heo vẫn không lên giống, ta nên bán loại để đảm bảo hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi.
Phó phòng Marketing
Thạc Sĩ, Bác Sĩ Thú Y (Trường Nông Lâm TP.HCM), Có hơn 6 năm kinh nghiệm trong ngành chăn nuôi